Các nghi Lễ hội nông nghiệp – Hệ thống lễ hội nông nghiệp của đồng bào Ê đê, cũng như các dân tộc thiểu số Tây nguyên ….

Lượt xem:

Đọc bài viết

Các nghi Lễ hội nông nghiệp

Hệ thống lễ hội nông nghiệp của đồng bào Ê đê, cũng như các dân tộc thiểu số Tây nguyên được tiến hành suốt cả một mùa rẫy (từ tháng 3 cho đến hết tháng 12 hàng năm), nhằm thể hiện phong tục, tập quán trong canh tác nương rẫy, tạ ơn các vị thần linh của núi rừng và cầu mong một vụ mùa bội thu, nhà nhà no đủ, buôn làng bình yên, giàu đẹp.

Người Ê Đê có các nghi lễ nông nghiệp như: Lễ tìm đất, lễ phát rẫy, lễ đốt rẫy, lễ gieo hạt, lễ vun gốc, lễ cầu no đủ, lễ cúng cầu mưa, lễ cúng thần gió, lễ cúng cầu lúa trổ bông nhiều hạt, lễ cúng trước khi thu hoạch, lễ ăn cơm mới, lễ mừng được mùa, lễ cúng bến nước, lễ cúng hồn lúa, lễ cúng kho lúa, lễ cúng nồi cơm và bầu đựng gạo…

  1. Lễ cầu mưa

Lễ cầu mưa (kăm mah) và lễ cầu mùa (kăm buh) là một nghi lễ rất quan trọng của người Ê đê: Đánh dấu thời điểm một mùa rẫy mới đã bắt đầu, với mong ước cầu cho mưa thuận, gió hòa, rẫy nương tươi tốt; thóc lúa đầy kho. Chính vì những lẽ đó mà mọi gia đình trong buôn chuẩn bị rất kỹ trước khi tiến hành lễ cúng.

Khi lễ cúng đã khép lại, chủ buôn mời tất cả mọi người về nhà mình ăn thịt heo, uống rượu mừng một mùa rẫy mới.

  1. Lễ mừng trận mưa đầu mùa

Gồm lễ toàn buôn và lễ riêng từng gia đình. Trong gia đình, lễ vật bày trên một cái nia đặt ở giữa nhà, cạnh bếp khách. Trong nia còn có ống đựng lúa, gậy chọc lỗ, các gói nhỏ hạt giống. Lễ này, chủ yếu tạ ơn thần trời đã cho mưa để lúa bắp tươi tốt, nhà nhà no ấm.

  1. Lễ cúng bến nước

 

Được tiến hành hàng năm, nhằm cầu thần nước, tạ ơn thần nước và kết hợp sửa sang bến nước. Lễ được làm trong hai ngày.

Ngày thứ nhất: Một nhóm sửa lại đường lên xuống bến nước, sửa lại cầu tắm giặt, thay ống dẫn nước và đường dẫn nước.

Ngày thứ hai: Sáng sớm chủ bến nước sai con cháu làm ba con heo (một con cúng tổ tiên ông bà, một con cúng Yàng (thần) bến nước, một con cúng sức khỏe cho chủ bến nước); đồng thời buộc 7 ché rượu tại gian Gar (gian khách của nhà dài) để làm lễ cúng các Yàng, vị thần linh. Sau đó, mọi người mang lễ mời thần linh, ông bà về dự lễ cúng bến nước.

Đoàn người đi ra bến nước để làm lễ cúng, gồm: Thầy cúng, chủ bến nước, hai người cầm khiên đao, ba người mang lễ vật. Đến bến nước thầy cúng đặt lễ cúng ở nơi bằng phẳng gần bến nước. Sau đó, thầy cúng đọc lời khấn thần linh. Khấn xong, thầy cúng cầm bình rượu có pha tiết heo đi từng vòi nước đổ lên ống nước. Sau đó thầy cúng cùng đoàn tuỳ tùng đi lên cổng bến nước làm lễ cúng thần giữ bến nước rồi trở về nhà chủ bến nước làm lễ cúng thần đất. Cúng xong mọi người lên nhà dài làm lễ cúng sức khoẻ cho chủ bến nước và cúng sức khoẻ cho thầy cúng, đội chiêng và mọi người trong buôn. Sau đó, mọi người cùng ăn uống, hát dân ca, thổi đinh năm, đing tuh… cho đến khuya, mọi người ra về.

  1. Lễ tuốt lúa, cúng thần lúa

Nghi lễ được tiến hành vào cuối tháng 10, khi lúa chín rộ. Khi tuốt lúa phải tuốt lúa theo hướng Đông, kiêng tuốt lúa theo hướng Tây, sợ lúa theo mặt trời đi mất.

Trong đời sống, người dân tộc Ê đê ở các tỉnh Tây Nguyên tổ chức nhiều nghi lễ (nghi thức và lễ hội) gắn với vòng đời người hoặc chu trình sản xuất… Cúng thần lúa là một trong những nghi lễ quan trọng nhất gắn liền với phong tục sản xuất của người Ê đê.

 

Cúng thần lúa phải trải qua nhiều nghi thức khác nhau như: cúng thần gió, cúng cái cào cỏ, lễ trỉa lúa, lễ cầu mưa, lễ cúng lúa sắp trổ bông, cúng tuốt lúa đầu mùa, cúng ăn cơm mới, cúng hồn trữ kho…

Để chuẩn bị cho việc cúng rẫy, chủ rẫy phải chuẩn bị các bước dọn rẫy (như phát hoang, đốt rẫy, dọn đất), sau đó, dân làng chuẩn bị lễ cúng thần lúa và các thần khác. Mục đích của lễ cúng là cầu các thần phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng được bội thu, kinh tế phát triển, đời sống được ấm no, hạnh phúc. Lễ cúng thần lúa được thực hiện ở nhà, trên rẫy và trên đường lên rẫy, với những lễ vật do chính đồng bào làm ra như: rượu cần, lợn, gà.

Trước tiên là cúng thần gió để mong tránh bão dông. Lễ vật dâng thần gồm 1 ché rượu, 1 con lợn và 1 ống cơm lam. Tiếp đến là cúng cái cào cỏ. Nghi thức này thực hiện trước lúc trồng tỉa, ở bến nước để cầu mưa thuận gió hòa, rẫy ít cỏ, bắp lúa tốt tươi. Khi thực hiện, người thầy cúng cầm cào cỏ cào mấy lần tượng trưng cho mùa làm rẫy bắt đầu. Lễ vật cũng giống như cúng thần gió. Sau cúng thần gió và cái cào cỏ là lễ cúng trỉa lúa. Đồng bào dựng 2 chòi ở nơi trước đây đã làm lễ cúng thần gió, với ý nguyện: “mong mưa phùn đủ nước, mong mưa rào no rẫy”. Nghi thức này được thực hiện cả ở nhà và ngoài rẫy. Lễ vật cúng ở trong nhà gồm 1 bộ cồng chiêng, 7 ché rượu và lợn, gà đã làm sẵn để dâng cho các thần. Ở ngoài rẫy dựng một chòi có 3 cái bồ lúa đựng đất (thể hiện thần lúa nằm trong đất); một chòi ở cho Thần Lúa (Yang bao), có tượng 2 vợ chồng tượng trưng cho thần canh giữ rẫy, nằm dưới chòi có 1 tượng thần độc ác bị buộc chặt vào cột nhà ý là không để cho phá phách.

Cúng ngoài rẫy còn có thêm các lễ vật khác như: cây cắm tổ ong, nhiều hình giả các loài thú (nai, heo rừng, nhím, chuột, sóc…), brui (tượng trưng cho bông lúa), hạt giống thật (lúa, bắp, hạt bí, bầu…), cây chọc lỗ, ống lồ ô đựng hạt để trỉa lúa, các loại bẫy phòng tránh thú vật phá hoại… Cúng hạt giống (Tring mjel) cầu cho hạt lúa lên đều; đồng thời tái hiện lại cảnh lao động sản xuất, tạo mưa cho mùa màng tươi tốt, đặt các loại bẫy để xin các thần đừng cho các con thú nhỏ (chim, sóc, chuột) phá hại lúa đang nảy mầm. Hạt giống gồm các loại: lúa, bắp, bí, bầu… Lễ này được cúng cho chủ nhà và cả cộng đồng.

 

Sau khi cúng xong ngoài trời, bà con về nhà đánh cồng chiêng mời các Yàng (thần) ăn uống rồi người dân lần lượt ăn uống. Sau đó tiếp tục cúng đưa đi và xua đuổi thần sấm sét trở về nơi của mình. Đến lúc lúa sắp trổ bông, chủ rẫy lại chuẩn bị lễ vật cúng. Cầu lúa trổ bông đều dài đầy hạt đạt năng suất cao. Chủ nhà chọn một mô đất quanh bụi lúa giữa rẫy, cắm một tre nhỏ giữa nắm đất, tượng trưng cho thần lúa. Lễ này cúng cho các thần: thần núi, thần lúa, người đã qua đời. Khi lúa đến mùa thu hoạch, chủ rẫy lại chuẩn bị lễ cúng tuốt lúa đầu mùa và nghi lễ ăn cơm mới. Người nhà lên rẫy tuốt một gùi đem về, phơi giã nấu cơm cúng. Trên các ngả đường lên rẫy, gia chủ đều phải bầy lễ vật cúng tạ thần mưa. Những người họ hàng được báo đều đến chia vui với chủ nhà. Thời gian ăn cơm mới kéo dài khi tuốt lúa cho đến khi lúa chín hết trên rẫy. Lúa được mang về nhà, chủ rẫy lại tổ chức lễ cúng hồn lúa trữ kho để cầu mong ăn nhiều, dư nhiều, phần dư bán để sắm tài sản làm giàu cho gia đình.

  1. Lễ ăn cơm mới

Được tiến hành vào cuối mùa rẫy vào khoảng tháng 11 dương lịch. Lễ cúng được tổ chức theo gia đình, tại rẫy và tại nhà, kéo dài ba ngày.

Gạo cúng cơm mới phải là gạo thu hoạch từ khoảnh rẫy thiêng của rẫy lúa, được chăm sóc đặc biệt. Giống chọn cẩn thận, chỉ có chủ nhà (người phụ nữ) được chăm sóc cẩn thận, khi tuốt phải dùng tay để làm cho cây lúa khỏi bị đau, thần lúa sẽ ở lại với chủ rẫy

Tại khoảnh rẫy thiêng, chủ rẫy cắm một cây nêu treo hình nộm tượng trưng thần giữ rẫy.

Tiếp theo là diễn tấu nhạc cụ tre nứa, hát ay ray, hát kưưt (dân ca), nhảy múa, ăn uống cộng cảm. Chiêng trống diễn tấu điệu vui.